Chữ và nghĩa: "Phảng đâu, cù nèo đó"

30/07/2025 18:34 GMT+7 | Văn hoá

Ở Nam bộ, nói đến cái phảng phát cỏ thì không thể bỏ qua cái cù nèo. "Phảng đâu, cù nèo đó" - thành ngữ. Khi sử dụng phảng, dù không phải khòm lưng, nhưng muốn chém cỏ sát tận gốc thì nhờ cái cù nèo.

Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY

Cù nèo phải có mấu, tục ngữ có câu: "Lấy vợ không cheo như cù nèo không mấu". Mấu dùng để ngoéo cỏ nằm sát đất, kéo lên rồi dùng phảng chém, vì thế nó còn có tên gọi cù ngoéo. Ngoéo nghĩa là móc, ngoắc vào, nhưng ta hiểu thế nào về câu ca dao: "Mề gà, gan vịt em chê/ Thấy anh ngoéo ếch em mê anh liền".

Xin thưa, với hình thức na ná như cù nèo nhưng dùng để bắt ếch, bắt cua, người miền Nam gọi là cần ngoéo ếch, cần ngoéo cua. Nhưng khi về Tây Nam bộ, nghe cô thôn nữ cất tiếng ca lanh lảnh: "Kèo nèo mà lại làm chua/ Ăn với cá rán chẳng thua món nào", thì xin chớ nhầm với… cù nèo. Kèo nèo là tên một loại cây hơi giống lục bình (bèo Nhật Bản), nhưng không trôi giạt trên sông lạch, mà sống bám cố định vào bùn đất: "Kèo nèo xào mỡ khỏi chê/ Ăn vào một miếng là mê tới già".

Chữ và nghĩa: "Phảng đâu, cù nèo đó" - Ảnh 1.

Phảng (tay phải của nhân vật) và cù nèo là hai nông cụ quen thuộc của người Nam bộ xưa. Ảnh: Lê Quốc Việt

Thế nhưng, khi nghe: "Chà, con nhỏ đó kèo nèo một cây", ta hiểu kèo nèo còn là nói tranh nạnh, phân bì, gay gắt, kèo nài người khác...

Từ "cù" trong tiếng Việt biến hóa với nhiều ngữ nghĩa. Một cậu trai nói với bạn: "Cô bé ấy măng quá, trông nheo nhẻo, đố mày cù được tối nay đi xem hát". Măng, nheo nhẻo là trẻ, đẹp. Cù là gì? Là rủ rê, gạ gẫm ai đó bằng mọi cách.

Chê ai đó ngù ngờ, chậm chạp, quê mùa, người ta dùng từ cù lần. Khi nói cù lần chúa/  cù lần lửa là hàm ý nhấn mạnh rất cù lần. Nay, thay vì nói như thế, e dễ chạm tự ái, đã có một loạt từ mới xuất hiện như: Củ chuối, Hai Lúa, chú Mười, Tư Ếch… 

Một người hỏi: "Nợ nần thế nào rồi anh Tư?", chỉ khi vào miền Nam mới nghe được câu trả lời như: "À, chẳng đâu vào đâu. Nó cứ cù lơ cù trợt miết, muốn cho qua truông". Ta hiểu, anh Tư đi đòi nợ mà người kia cứ hẹn lần, hẹn lữa, hẹn hoài mà không chịu trả. Loại người đó, còn gọi là cù chì cù mài, tức lì cố mạng. Chì là lì, lì lợm; miết ở đây chỉ hành động cù nhầy, lặp đi lặp lại nhiều lần, mặt không biết mắc cỡ, xấu hổ. Tuy nhiên, tùy ngữ cảnh, cù chì cù mài còn nhằm chỉ ai đó siêng năng, thong thả, chậm chạp, nhẫn nại như đang mài dũa cái gì đó từng chút một.

Lần đầu tiên nghe câu hát huê tình này ở Nam bộ, thú thật tôi bí rị: "Mùa màng mạ mọng cù lăn gieo/ Phảng kia phát chế cù nèo cà lăn quơ".

Phảng, cù nèo thì biết rồi, nhưng cù lăn gieo, cà lăn quơ là cái gì vậy ta? Nói nôm na, gieo và quơ nhằm chỉ hành động, cù lăn là chỉ tính hành động đó phải khẩn trương, nhanh chóng, gấp gáp cho kịp thời vụ. Thế nhưng, cù lăn cù lóc lại chỉ một vật dụng quá đát; hoặc không thích sử dụng bèn vứt bỏ ở xó xỉnh nào đó, không thèm quan tâm đến nữa, chẳng hạn, "Từ khi có cái điện thoại thông minh, cái cục gạch kia bị cô ta bỏ cù lăn cù lóc".

Lê Minh Quốc

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm